khuyến mại dịch vụ thiết kế website

Kiểm soát hành vi hạn chế cạnh tranh

Thứ hai, 15 Tháng 4 2013

Kiểm soát hành vi hạn chế cạnh tranh

Mức độ cao nhất của thống lĩnh thị trường là vị trí độc quyền. Theo luật doanh nghiệp về Cạnh tranh, doanh nghiệp được coi là có vị trí độc quyền nếu không có doanh nghiệp nào cạnh tranh về hàng hoá, dịch vụ mà doanh nghiệp đó kinh doanh trên thị trường liên quan[3]. Luật doanh nghiệp còn nêu rõ Khi doanh nghiệp có vị trí độc quyền thì ngoài các hành vi bị cấm như đối với trường hợp doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh, doanh nghiệp (có vị trí độc quyền) còn bị cấm thực hiện các hành vi sau...

mua sach truc tuyennha sach minh khainhan chung hoc50 sac thai tap 4sachgiamgiasach tam ly hoctu dien han viet hien dai

 

 

1. Khái niệm:

Hạn chế cạnh tranh là hành vi của doanh nghiệp làm giảm, sai lệch, cản trở cạnh tranh trên thị trường[1].

Đối với những hành vi hạn chế cạnh tranh, pháp luật quy định về các hành vi như thế nào là hạn chế cạnh tranh, những hành vi nào bị cấm tuyệt đối và những hành vi bị cấm nhưng có những trường hợp được miễn trừ (có thời hạn và không có thời hạn) khi đạt những điều kiện nhất định.

2. Các hành vi hạn chế cạnh tranh

a. Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh

Cơ chế kinh tế thị trường luôn tiềm ẩn nguy cơ các doanh nghiệp lạm dụng quyền tự do hợp đồng để xác lập những thỏa thuận hạn chế khả năng tham gia thị trường của các đối thủ cạnh tranh tiềm năng, tìm cách loại bỏ một số đối thủ nào đó trên thương trường, hạn chế hay thủ tiêu sự cạnh tranh giữa những đối thủ cạnh tranh. Theo Luật Cạnh tranh, các thoả thuận hạn chế cạnh tranh bao gồm:

- Thoả thuận ấn định giá hàng hoá, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp;

- Thoả thuận phân chia thị trường tiêu thụ, nguồn cung cấp hàng hoá, cung ứng dịch vụ;

- Thoả thuận hạn chế hoặc kiểm soát số lượng, khối lượng sản xuất, mua, bán hàng hoá, dịch vụ;

- Thoả thuận hạn chế phát triển kỹ thuật, công nghệ, hạn chế đầu tư;

- Thoả thuận áp đặt cho doanh nghiệp khác điều kiện ký kết hợp đồng mua, bán hàng hoá, dịch vụ hoặc buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng;

- Thoả thuận ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác tham gia thị trường hoặc phát triển kinh doanh;

- Thoả thuận loại bỏ khỏi thị trường những doanh nghiệp không phải là các bên của thoả thuận;

- Thông đồng để một hoặc các bên của thoả thuận thắng thầu trong việc cung cấp hàng hoá, cung ứng dịch vụ.

Tuy nhiên, không phải mọi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh đều bị cấm một cách tuyệt đối. Việc cấm tuyệt đối (không có miễn trừ, không có ngoại lệ) chỉ áp dụng đối với những loại thỏa thuận về ngăn cản, kìm hãm, không cho đối thủ tiềm năng tham gia thương trường, không được phát triển, mở rộng kinh doanh; thỏa thuận loại bỏ các doanh nghiệp nằm ngoài thỏa thuận (tẩy chay) hoặc thông đồng để một hoặc các bên thắng thầu trong cung cấp hàng hóa, cung cấp dịch vụ. Những loại thỏa thuận hạn chế cạnh tranh còn lại chỉ bị cấm khi các bên tham gia thỏa thuận  có thị phần kết hợp trên thị trường liên quan từ 30% trở lên[2]. Những thỏa thuận liên quan đến thị phần liên quan dưới 30% là hợp pháp.

b. Lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường

Khi một doanh nghiệp tồn tại trên thị trường liên quan với một thị phần và phạm vi ảnh hưởng lớn nhất định sẽ dẫn đến  nguy cơ doanh nghiệp này lạm dụng thế mạnh của mình để thực hiện các hành vi cạnh tranh gây bất lợi cho các đối thủ cạnh tranh, khách hàng và có tác động tiêu cực đến thị trường. Theo Luật Cạnh tranh, doanh nghiệp được coi là có vị trí thống lĩnh thị trường nếu có thị phần từ 30% trở lên trên thị trường liên quan hoặc có khả năng gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể.

Nhóm doanh nghiệp được coi là có vị trí thống lĩnh thị trường nếu cùng hành động nhằm gây hạn chế cạnh tranh và thuộc một trong các trường hợp sau đây:

- Hai doanh nghiệp có tổng thị phần từ 50% trở lên trên thị trường liên quan;

- Ba doanh nghiệp có tổng thị phần từ 65% trở lên trên thị trường liên quan;

- Bốn doanh nghiệp có tổng thị phần từ 75% trở lên trên thị trường liên quan

Khi được coi là doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường, doanh nghiệp sẽ bị cấm lạm dụng vị trí này để hạn chế cạnh tranh. Theo Điều 13 Luật Cạnh tranh, những hành vi bị cấm đối với doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường (bao gồm doanh nghiệp độc lập và nhóm doanh nghiệp) là:

- Bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh;

- Áp đặt giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ bất hợp lý hoặc ấn định giá bán lại tối thiểu gây thiệt hại cho khách hàng;

- Hạn chế sản xuất, phân phối hàng hoá, dịch vụ, giới hạn thị trường, cản trở sự phát triển kỹ thuật, công nghệ gây thiệt hại cho khách hàng;

- Áp đặt điều kiện thương mại khác nhau trong giao dịch như nhau nhằm tạo bất bình đẳng trong cạnh tranh;

- Áp đặt điều kiện cho doanh nghiệp khác ký kết hợp đồng mua, bán hàng hoá, dịch vụ hoặc buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng;

- Ngăn cản việc tham gia thị trường của những đối thủ cạnh tranh mới.

c. Lạm dụng vị trí độc quyền

Mức độ cao nhất của thống lĩnh thị trường là vị trí độc quyền. Theo Luật Cạnh tranh, doanh nghiệp được coi là có vị trí độc quyền nếu không có doanh nghiệp nào cạnh tranh về hàng hoá, dịch vụ mà doanh nghiệp đó kinh doanh trên thị trường liên quan[3]. Khi doanh nghiệp có vị trí độc quyền thì ngoài các hành vi bị cấm như đối với trường hợp doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh, doanh nghiệp (có vị trí độc quyền) còn bị cấm thực hiện các hành vi sau:

- Áp đặt các điều kiện bất lợi cho khách hàng;

- Lợi dụng vị trí độc quyền để đơn phương thay đổi hoặc huỷ bỏ hợp đồng đã giao kết mà không có lý do chính đáng.

d. Tập trung kinh tế

Theo Luật Cạnh tranh (Điều 16), tập trung kinh tế là hành vi của doanh nghiệp, bao gồm:

- Sáp nhập doanh nghiệp;

- Hợp nhất doanh nghiệp;

- Mua lại doanh nghiệp;

- Liên doanh giữa các doanh nghiệp;

- Các hành vi tập trung kinh tế khác theo quy định của pháp luật.

Tập trung kinh tế là hiện tượng tất yếu trong kinh tế thị trường. Tuy nhiên, tập trung kinh tế tiềm ẩn khả năng hình thành các doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh và độc quyền. Việc hợp nhất hay sáp nhập giữa các doanh nghiệp là con đường nhanh nhất để tạo khả năng độc quyền của một doanh nghiệp mới. Vì vậy, pháp luật cạnh tranh luôn có nhiệm vụ kiểm soát tập trung kinh tế.

Theo quy định của Luật Cạnh tranh, không phải mọi trường hợp tập trung kinh tế đều bị pháp luật ngăn cản. Tùy thuộc vào mức độ tập trung kinh tế và khả năng phá vỡ sự cân bằng của cơ cấu thị trường mà sự giám sát này có thể được thực hiện ở nhiều mức độ khác nhau. Tập trung kinh tế được chia thành nhiều nhóm với cách thức và mức độ kiểm soát có sự khác nhau, cụ thể là:

- Các trường hợp tập trung kinh tế được tự do thực hiện;

- Các trường hợp tập trung kinh tế được thực hiện sau khi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét chấp nhận;

- Cho hưởng miễn trừ đối với một số trường hợp tập trung kinh tế thuộc diện bị cấm;

- Các trường hợp tập trung kinh tế bị cấm tuyệt đối (không có ngoại lệ)[4].

 


[1] Khoản 3 Điều 3 Luật Cạnh tranh 2004.

[2] Các bên tham gia loại thỏa thuận này có thể làm thủ tục để được hưởng miễn trừ có thời hạn.

[3] Điều 12 Luật Cạnh tranh 2004

[4] Xem các điều 18, 19, 20 Luật Cạnh tranh.

 
Tin khuyến mại
Kiến thức CNTT
Kiến thức doanh nghiệp
Kiến thức kế toán
Kiến thức pháp luật thuế
Kiến thức hóa đơn chứng từ
Dịch vụ đăng ký website với Bộ Công Thương
Dịch vụ thiết kế website trọn gói giá rẻ
Dịch vụ thiết kế website
Dịch vụ domain
Dịch vụ Hosting